11 triệu trẻ em ở Nga có nguy cơ bị viêm phổi: các bác sĩ đã xác định được các yếu tố nguy cơ chính

Pin
Send
Share
Send

Hơn 10,8 triệu trẻ em dưới 5 tuổi có thể chết vì nhiễm trùng có thể phòng ngừa vào năm 2030. Các biện pháp phòng ngừa kịp thời có hiệu quả ngăn ngừa các bệnh về đường hô hấp. Các nhà khoa học cũng trình bày 4 triệu chứng sẽ giúp cha mẹ phân biệt giữa viêm phổi do virus và viêm phổi do vi khuẩn, và có biện pháp phù hợp.

Làm thế nào phổ biến là viêm phổi ở các nước công nghiệp?

Ở các nước công nghiệp, viêm phổi phát triển chủ yếu ở người già, đang phát triển - ở trẻ em. Chỉ riêng năm 2016, hơn 880.000 trẻ em dưới 5 tuổi đã chết vì căn bệnh này.

Dựa trên các số liệu trước đó, một số quốc gia ở Châu Phi và Nam Á có thể thuộc nhóm dễ bị tổn thương nhất. Ở Nigeria và Ấn Độ, có 1,7 triệu ca tử vong do viêm phổi ở trẻ nhỏ. 700.000 ở Pakistan và 635.000 ở Cộng hòa Dân chủ Congo.

Đồng thời, các tác giả của nghiên cứu nhấn mạnh rằng nhiều trường hợp tử vong có thể được ngăn ngừa bằng các biện pháp tương đối đơn giản. Bảo hiểm tiêm chủng tốt hơn, kháng sinh giá rẻ và dinh dưỡng tốt có thể cứu sống 4,1 triệu người.

Người đứng đầu tổ chức Save the Children cảnh báo rằng giá vắc-xin viêm phổi hiện tại nên giảm mạnh.

Mỗi năm, có nhiều trẻ em chết vì viêm phổi trên toàn thế giới hơn là do sốt rét, tiêu chảy và sởi. Các mục tiêu của Liên Hợp Quốc vào năm 2030 cũng bao gồm việc xóa bỏ tỷ lệ tử vong có thể phòng ngừa ở trẻ em.

4 triệu chứng giúp phân biệt viêm phổi do virus với vi khuẩn

Để giúp các bác sĩ chẩn đoán, các nhà nghiên cứu Anh đã xác định 4 triệu chứng xảy ra trong hơn 80% trường hợp viêm phổi. Kết quả được công bố trên Tạp chí Hô hấp châu Âu.

Các bác sĩ gia đình đã lưu ý ở nhiều trẻ em các triệu chứng điển hình của bệnh hô hấp - ho, khạc đờm hoặc khó thở. Hầu hết trong số họ bị nhiễm virus, vì vậy kháng sinh là vô dụng.

2 trong 3 trường hợp viêm phổi không được bác sĩ gia đình điều trị đúng cách. Nhiều bác sĩ nhi khoa kê đơn thuốc kháng sinh để phòng ngừa. Tại Hoa Kỳ, các bác sĩ kê đơn thuốc cho khoảng 60% bệnh nhân.

Nghiên cứu bao gồm khoảng 29.000 hồ sơ bệnh nhân nghi ngờ nhiễm trùng phổi. Hơn 5.000 bác sĩ đa khoa ở Anh trước đây đã nghiên cứu những bệnh nhân này. X-quang ngực được thực hiện ở 720, xác nhận chẩn đoán viêm phổi năm 115.

Trong nhóm người bị viêm phổi, một số triệu chứng xảy ra thường xuyên hơn nhiều so với người khỏe mạnh. 86% bệnh nhân bị viêm phổi có ít nhất 1 trong 4 triệu chứng sau:

  • thân nhiệt trên 37,8 độ C;
  • tiếng ồn khi hít vào;
  • nhịp tim hơn 100 nhịp mỗi phút;
  • độ bão hòa oxy trong máu dưới 95 phần trăm (oxy hóa xung ngón tay).

Nếu có một hoặc nhiều trong số 4 triệu chứng được liệt kê, rất có thể đó là nhiễm virus. Các triệu chứng như màu sắc của đờm đi không có giá trị chẩn đoán.

Sự khác biệt cơ bản giữa điều trị viêm phổi do virus và vi khuẩn

Viêm phổi do vi khuẩn được điều trị bằng kháng sinh phổ rộng. Chúng có hiệu quả chống lại vi khuẩn và một số loại nấm, nhưng vô dụng chống lại nhiễm virus. Ngay khi mầm bệnh được biết đến, loại kháng sinh được sử dụng trước đó có thể được thay thế bằng loại hiệu quả hơn.

Viêm phổi do phế cầu cổ điển thường được điều trị bằng penicillin. Haemophilusenzae type b là mầm bệnh phổ biến ở trẻ em được kiểm soát thành công với ampicillin.

Viêm phổi do virus không đáp ứng với thuốc, vì vậy bạn cần giới hạn các biện pháp chung và tránh các biến chứng. Tuy nhiên, bội nhiễm vi khuẩn thường phát triển, đòi hỏi phải sử dụng kháng sinh.


Sử dụng không đúng cách các tác nhân kháng khuẩn làm tăng nguy cơ biến chứng nhiễm trùng do virus. Các biện pháp điều trị chính là nghỉ ngơi, 1,5 lít nước mỗi ngày và chế độ ăn uống cân bằng. Trước khi sử dụng thuốc, bạn nhất thiết phải tham khảo ý kiến ​​bác sĩ.

Pin
Send
Share
Send